Thuốc co mạch và tăng co bóp là những thuốc cấp cứu nói chung và có chỉ định dùng trong xử trí các tình huống gây choáng.
Thuốc co mạch và thuốc tăng co bóp là gì?
Nhịp tim, tần số mạch và huyết áp là những thông số cơ bản đánh giá hoạt động của hệ tuần hoàn trong cơ thể. Chỉ khi các thông số này ổn định, sự cung cấp máu đến các cơ quan được đầy đủ, hoạt động sống của cơ thể mới được đảm bảo.
Khi tim co bóp hiệu quả, từng nhịp đập của tim sẽ tống một thể tích máu nhất định vào đại động mạch. Đi kèm với điều kiện sức co bóp cơ tim là trương lực thành mạch, hai yếu tố này cấu thành nên huyết áp, tức áp suất máu trong lòng mạch cũng như áp lực tưới máu cho mô. Nếu vì bất kỳ lý do nào khiến một trong hai, tim hoặc hệ mạch bị tổn thương, hay cả hai, máu tới cơ quan không đủ, các mô sẽ bị thiếu oxy, dẫn đến sự hình thành axit lactic và suy nội tạng, tử vong sau đó.
Như vậy, để chống lại tình trạng này, cần có chỉ định sử dụng thuốc co mạch và thuốc gây tăng co bóp. Đây đều là các thuốc có tác động dương tính lên hệ tuần hoàn. Thuốc tăng co bóp sẽ có vai trò nhanh chóng làm tăng sức bóp của cơ tim và tăng tần số tim. Theo dược sĩ thuốc co mạch sẽ có vai trò làm tăng trương lực thành mạch, các mạch máu ngoại biên co lại. Sự kết hợp của hai nhóm thuốc này sẽ làm tăng nhanh trị số huyết áp, duy trì chức năng tuần hoàn cho cơ thể.
Tuy nhiên, do các thuốc này có tác dụng kích hoạt rất nhanh, ngay khi bắt đầu sử dụng, cần nhanh chóng theo dõi sát các thông số huyết động như cung lượng tim, áp lực động mạch và cả áp lực tĩnh mạch trung tâm (nếu có). Các thông số này sẽ là nền tảng để liên tục điều chỉnh thuốc cho phù hợp, nhằm duy trì tính hiệu quả cao nhất cho người bệnh cũng như hạn chế tối đa các tác dụng phụ, nhất là khi dùng liều cao.
Đồng thời, việc dùng thuốc co mạch và thuốc tăng co bóp chỉ giúp ích trong tình huống nhất thời. Việc tích cực tìm kiếm và điều chỉnh các yếu tố gây suy tuần hoàn mới là yếu tố quan trọng nhất, giúp người bệnh thoát khỏi cơn nguy kịch.
Cách thức sử dụng thuốc co mạch và tăng co bóp
Theo bác sĩ giảng viên Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn tất cả các thuốc co mạch và thuốc tăng co bóp đều được sử dụng dưới dạng tiêm tĩnh mạch.
Phương pháp được lựa chọn trong thực tế là truyền tĩnh mạch liên tục bằng máy tiêm điện với tốc độ và nồng độ được chuẩn độ ở mức độ chính xác nhất nhằm đạt được hiệu quả mong muốn.
Thông thường đường tĩnh mạch ngoại vi sẽ được lựa chọn tiếp cận đầu tiên vì tính thuận tiện, dễ sử dụng nhưng chỉ nên dùng trong thời gian ngắn, nhằm hạn chế các tác dụng phụ. Nếu có chỉ định sử dụng thuốc lâu dài, cần dùng thuốc qua đường tĩnh mạch trung tâm và điều này sẽ cho phép thuốc phát huy tác dụng hiệu quả hơn.
Các tác dụng phụ không mong muốn
Dược sĩ Cao đẳng dược TPHCM cho biết tác dụng bất lợi của thuốc vận mạch và thuốc tăng co bóp sẽ phụ thuộc vào cơ chế tác dụng. Tuy nhiên, hầu hết các thuốc đều có tính kích thích thụ thể beta giao cảm, rối loạn nhịp tim là một trong những tác dụng phụ phổ biến nhất.
Dopamine có tác dụng trong các cơ chế khác nhau và cũng có tác dụng phụ như hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, hoại tử mô cục bộ và hoại thư nếu xảy ra ngoại mạch.
Epinephrine có thể làm nhịp tim tăng quá nhanh, khiến bệnh nhân kích thích nếu còn tỉnh táo. Norepinephrine cũng có tác dụng phụ tương tự như epinephrine nhưng cũng có thể khiến nhịp tim chậm và rối loạn nhịp tim.
Tác dụng bất lợi của thuốc gây tăng co bóp cơ tim như dobutamin là tăng huyết áp quá mức hay hạ huyết áp, rối loạn nhịp tim, đau thắt ngực, cơn nhồi máu cơ tim cấp tính. Dobutamine đặc biệt có thể gây hạ kali máu và hoại tử mô cục bộ khi thoát mạch. Ngoài ra, trong các tình huống suy tim nặng, sử dụng dobutamine cũng có bằng chứng làm tăng tỷ lệ tử vong khi sử dụng kéo dài.