Mỡ máu là một bệnh lý liên quan mật thiết đến các thói quen sống hàng ngày. Bệnh thường khó phát hiện trong thời gian đầu. Vậy trong quá trình điều trị mỡ máu có những nhóm thuốc nào?
- Cùng dược sĩ tìm hiểu các loại thuốc dự phòng hen suyễn là gì?
- Dược sĩ tư vấn liều dùng thuốc Hapacol đúng cách
- Thuốc Alverine Citrate 40mg những tác dụng phụ, và liều dùng hợp lý
Bệnh mỡ máu là tình trạng chỉ số thành phần mỡ có trong máu vượt quá mức giới hạn
BỆNH MỠ MÁU LÀ GÌ?
Theo chuyên gia Trường THPT Sài Gòn Bệnh mỡ máu (hay còn được gọi là bệnh máu nhiễm mỡ, rối loạn chuyển hóa lipid máu) là tình trạng chỉ số thành phần mỡ có trong máu vượt quá mức giới hạn do các nguyên nhân dẫn đến rối loạn chức năng chuyển hóa lipid trong máu.
Các chỉ số bình thường của các thành phần mỡ có trong máu:
- Cholesterol toàn phần: < 5.2 mmol/L .
- LDL – Cholesterol: < 3.3 mmol/L.
- Triglyceride: < 2.2 mmol/L.
- HDL – Cholesterol: > 1.3 mmol/L.
Các chỉ số trên ở mức bình thường, các xét nghiệm cho kết quả cholesterol toàn phần, LDL – cholesterol, Triglyceride cao hơn chứng tỏ bạn đang có biểu hiện bệnh mỡ máu. Tuỳ vào mức độ tăng cao của các chất trên mà biểu hiện tình trạng bệnh nặng hay nhẹ. Trong khi đó, HDL – Cholesterol là một Cholesterol tốt cho sức khỏe giúp tăng đào thải LDL – Cholesterol (gây hại cho sức khỏe), khi HDL – cholesterol tăng là một dấu hiệu tốt.
Các loại thuốc và nhóm thuốc điều trị mỡ máu
MỘT SỐ THUỐC VÀ NHÓM THUỐC ĐIỀU TRỊ MỠ MÁU
Theo các Dược sĩ – Giảng viên Cao đẳng Dược Sài Gòn cho biết một số thuốc và nhóm thuốc điều trị bệnh mỡ máu như sau:
Một số loại renins gắn acid mật
Một số thuốc questran, colestid… không hấp thu qua ruột mà gắn với acid mật làm giảm hấp thu của chúng. Bởi thế, thuốc sẽ làm tăng chuyển hóa từ cholesterol sang acid mật trong gan,giảm lượng dự trữ cholesterol trong gan và làm tăng hoạt tính của thụ thể lipopotein tỷ trọng thấp (LDL) của gan. Thuốc làm giảm LDL-C tới 30%, làm tăng lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-C) khoảng 5% nhưng làm tăng nhẹ triglycerid. Bởi thế, các Dược sĩ và Bác sĩ thường dùng kết hợp với thuốc khác và không dùng khi triglycerid tăng cao. Tác dụng phụ (ADR) của một số loại renins gắn acid mật có thể gặp bao gồm táo bón, đau bụng, buồn nôn, nôn, nóng ruột…
Nicotinic acid (niacin)
Nicotinic là một loại vitamin tan trong nước, ức chế gan sản xuất ra một số lipoprotein. Một số thuốc Nicotinic (niacin) làm giảm LDL-C tới 25% và tăng HDL-C từ 15 – 35%. Liều dùng thuốc Nicotinic (niacin) bắt đầu nên thấp, sau đó có thể tăng liều Nicotinic (niacin). ADR: cảm giác đỏ bừng da rất hay gặp. Có thể tránh bằng dùng thuốc trong bữa ăn hay dùng 100mg aspirin trước mỗi lần dùng thuốc 30 phút. Một số ADR khác bao gồm mẩn ngứa, buồn nôn, nôn… Không được dùng thuốc nhóm Nicotinic (niacin) cho người bệnh mắc gút, loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng mạn. Với người bệnh đái tháo đường dùng cần thận trọng.
Thuốc ức chế men HMG-CoA reductase (nhóm statin)
Bao gồm các thuốc tây y như : zocor, lovastatin, pravastatin, fluvastatin, atorvastatin (lipitor). Một số thuốc ức chế men HMG-CoA reductase ức chế hoạt hóa men HMG-CoA Reductase làm giảm hoạt động tổng hợp cholesterol trong tế bào gan và tăng hoạt hóa thụ thể LDL, do đó làm giảm LDL-C trong máu. Tuy nhiên khi dùng thuốc người bệnh có thể gặp: khó tiêu, ỉa chảy, táo bón, buồn nôn, đau bụng, đau đầu, mất ngủ. Không nên dùng statin cho người bệnh mắc bệnh gan đang tiến triển, đau cơ, viêm đa cơ…
Một số dẫn xuất fibrat (acid fibric)
Bao gồm lopid, lipavlon, lipanthyl, tricor, benzalip. ADR có thể gặp là sưng phù mặt, đau bụng, buồn nôn, đau đầu, mẩn ngứa…
Điều trị thay thế bằng hormon sinh dục nữ (estrogen)
Phương pháp hormone có thể có ích ở phụ nữ sau tuổi mãn kinh có rối loạn lipid máu. Estrogen dùng làm giảm LDL-C khoảng 15% và làm tăng HDL-C cũng khoảng 15%. Đây là thuốc nên chọn lựa đầu tiên cho điều trị phụ nữ sau tuổi mãn kinh có rối loạn lipid máu. Tuy nhiên, thuốc này có thể làm tăng triglycerid vì vậy người bệnh nên hỏi đáp y dược từ các bác sĩ trước khi dùng. Có thể dùng viên dùng phối hợp với progestin cho các phụ nữ mắc đau bụng kinh.